Mục lục
Điều 16. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.
Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
Bình Luận
Xét về bản chất thì việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có nét tương đồng so với quy định về phạm tội chưa đạt ở điểm hậu quả mong muốn của người phạm tội không xảy ra. Tuy nhiên hậu quả không xảy ra là xuất phát từ ý chí từ bỏ thực hiện hành vi của người phạm tội chứ không phải là do những nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan như chế định phạm tội chưa đạt. Dấu hiệu của việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được thể hiện đầy đủ qua các đặc điểm dưới đây:
Thứ nhất: Người phạm tội tự mình chấm dứt hành vi phạm tội
Sự chấm dứt tội phạm được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải là do người thực hiện hành vi tự nguyện và dứt khoát chấm dứt không tiếp tục thực hiện tội phạm nữa. Đây là dấu hiệu quan trọng nhất để nhận biết, người phạm tội phải tự mình, bằng ý chí của mình chấm dứt không thực hiện các hành vi khách quan ở giai đoạn tiếp theo giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc các hành vi khách quan khác cần thiết cho hậu quả xảy ra. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội còn được xem xét ở cả giai đoạn chuẩn bị phạm tội hay nói cách khác là ở tất cả các khâu, quá trình trước khi hậu quả xảy ra.
Nguyên nhân dẫn đến việc chấm dứt hành vi phạm tội: Phải xuất phát tự sự tự nguyện và kiên quyết của người thực hiện hành vi mà không phải bị tác động bởi các bên thứ ba hay chủ thể, nguyên nhân nào khác. Ví dụ: Tội giết người quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự, để giết Ông A, Ông B đã chuẩn bị đầy đủ các phương tiện, công cụ, nắm bắt được lịch trình, thời gian lên rẫy của Ông B. Tuy nhiên sau đó Ông B suy nghĩ lại chỉ vì tranh chấp đất mà mình lại ra tay giết người, cảm thấy cắn rứt lương tâm nên đã dừng không thực hiện tiếp. Việc không tiếp tục thực hiện hành vi của Ông B trong trường hợp này được xem là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
Thứ hai: Không bị ngăn cản thực hiện hành vi
Điều này có nghĩa, ngoài việc tự mình từ bỏ ý định thực hiện hành vi phạm tội thì không có bất kỳ điều gì có thể ngăn cản người phạm tội nếu họ quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng. Nếu trong phạm tội chưa đạt thì ta có thể dễ dàng nhận thấy người phạm tội luôn tìm mọi cách, tạo mọi cơ hội điều kiện, vượt qua các rào cản để thực hiện hành vi của mình nhưng trong chế định này người phạm tội không hề mong muốn hậu quả xảy ra nên dừng hoặc tìm mọi cách để dừng hành vi phạm tội.
Loại bỏ việc ngăn cản, hay dừng thực hiện hành vi là do tác động bởi yếu tố khác (Ví dụ: do người khác khuyên răn, ngăn cản, do bị phát hiện kịp thời, do vật cản…) thì không được xem xét là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội mà đây được xem là phạm tội chưa đạt. Ví dụ: đêm khuya Ông A đang lẻn vào nhà giết Ông B nhưng chó sủa làm mọi người thức giấc…Đây là chúng ta xem xét hành vi phạm tội không có đồng phạm, vậy trường hợp có đồng phạm với tư cách là người tổ chức, xúi giục, thực hành, giúp sức thì mỗi đồng phạm được xem là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội khi nào trong khi các đồng phạm khác vẫn cố tình thực hiện tội phạm đến cùng. Trong đồng phạm, việc đánh giá hành vi được thể hiện ở chỗ bản thân mỗi đồng phạm phải ngay lập tức tự chấm dứt vai trò của mình, đồng thời tìm mọi cách để ngăn chặn vai trò của đồng phạm khác.
Sự tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải xảy ra trước khi một người có hành vi thỏa mãn hết các dấu hiệu của một tội phạm cụ thể, nghĩa là chỉ có thể xảy ra khi một người thực hiện hành vi chuẩn bị phạm tội hoặc khi đã có hành vi bắt tay vào việc thực hiện tội phạm nhưng chưa thực hiện được tội phạm đến cùng. Nếu một người đã thực hiện được hết những hành vi mà người đó cho là cần thiết để thực hiện tội phạm nhưng tội phạm chưa hoàn thành do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người đó thì dù sau đó người ấy không tiếp tục thực hiện tội phạm nữa cũng không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội vì hành vi của người đó đã ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Nếu một người đã thực hiện được hết những hành vi mà người đó cho là cần thiết để thực hiện tội phạm nhưng giữa hành vi mà người đó thực hiện với hậu quả nguy hiểm cho xã hội còn có một khoảng thời gian. Trong khoảng thời gian này người ấy lại có những hành động tích cực ngăn chặn tội phạm khiến cho tội phạm không hoàn thành được cũng được coi là tự ý nủa chừng chấm dứt việc phạm tội.
Về trách nhiệm hình sự đối với người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội:
Về nguyên tắc người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội sẽ được miễn trách nhiệm hình sự cho tội danh định phạm. Tuy nhiên nếu các yếu tố cấu thành một tội danh khác thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự cho tội danh đó. Ví dụ: Để giết Ông B, Ông A đã mua một khẩu súng tuy nhiên sau đó không thực hiện hành vi nữa do nhận thấy cảm giác có lỗi, ray rứt lương tâm nếu giết Ông B. Việc tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội, Ông A không phải chịu trách nhiệm hình sự cho Tội giết người theo Điều 123, tuy nhiên với việc mua một khẩu súng, Ông A sẽ bị xem xét trách nhiệm hình sự ở tội danh “Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự” hoặc “Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao hoặc công cụ hỗ trợ” tùy thuộc vào loại súng mà Ông A đã mua.
Chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội một mặt thể hiện tính nhân đạo của luật hình sự, nó cho một người đã có ý định phạm tội, đã có hành vi chuẩn bị hoặc bắt tay vào việc thực hiện tội phạm nhưng đã tự nguyện nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, được hưởng lượng khoan hồng, không phải chịu trách nhiệm hình sự. Mặt khác, chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội cũng là một trong những biện pháp góp phần ngăn chặn những hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Nó cho phép một người có ý định phạm tội, đã chuẩn bị hoặc bắt tay vào việc thực hiện tội phạm, vẫn có khả năng lựa chọn cách xử sự của mình: Một là tiếp tục thực hiện tội phạm đến cùng thì có thể sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự; hai là tự mình chấm dứt việc phạm tội thì sẽ được hưởng lượng khoan hồng, không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong nhiều trường hợp một người có hành vi nguy hiểm cho xã hội đã lựa chọn cách xử sự thứ hai và điều đó rõ ràng đã góp phần hạn chế bớt những thiệt hại nguy hiểm có thể xảy ra cho xã hội.