Khái niệm tội phạm-BLHS 2015-Phân tích

Điều 8. Khái niệm tội phạm

  1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
  2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.

Bình Luận:

Từ khái niệm nêu trên ta xác định được các yếu tố cấu thành của tội phạm, bao gồm:

  1. Hành vi nguy hiểm cho xã hội.
  2. Yếu tố có lỗi.
  3. Do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện.
  4. Xâm phạm các mối quan hệ được quy định tại Bộ luật hình sự.

Do vậy không phải mọi hành vi đều cấu thành tội phạm mà chỉ khi hành vi đó thỏa mãn đồng thời 4 yếu tố nêu trên thì mới xác định có tội phạm xảy ra.

Khái niệm tội phạm theo quy định trên có nhiều điểm mới so với khái niệm tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 (gọi tắt là Bộ luật hình sự 1999). Cụ thể:

– Tăng cường chủ thể chịu trách nhiệm hình sự. Nếu trước đây chủ thể của tội phạm chỉ có thể là cá nhân thì hiện nay đã có thêm chủ thể mới là các pháp nhân thương mại. Hai chủ thể này có đặc điểm hoàn toàn khác nhau, chính vì vậy mà trách nhiệm hình sự của họ cũng khác nhau. Điều này thể hiện ở chỗ, cá nhân khi thực hiện hành vi phạm tội thì các loại hình phạt được áp dụng theo quy định tại Điều 32 (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình….), pháp nhân thương mại khi phạm tội thì được áp dụng một số loại hình phạt mang tính riêng biệt phù hợp với đặc điểm chủ thể quy định tại Điều 33 (phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, cấm kinh doanh, cấm huy động vốn….) và tất nhiên phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại cũng chỉ giới hạn ở các loại tội phạm được quy định tại Điều 76, cụ thể Điều 188 (Tội buôn lậu), Điều 189 (Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới), Điều 190 (Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm), Điều 191 (Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm), Điều 192 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả), Điều 193 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm), Điều 194 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuộc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh), Điều 195 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi), Điều 196 (Tội đầu cơ), Điều 200 (Tội trốn thuế), Điều 203 (Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước), Điều 209 (Tội cố ý công bố thông tin sai lệch, hoặc che dấu thông tin trong hoạt động chứng khoán), Điều 210 (Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán), Điều 211 (Tội thao túng thị trường chứng khoán), Điều 213 (Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm), Điều 216 (Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động), Điều 217 (Tội vi phạm quy định về cạnh tranh), Điều 225 (Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan), Điều 226 (Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp), Điều 227 (Tội vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên), Điều 232 (Tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản), Điều 234 (Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã), Điều 235 (Tội gây ô nhiễm môi trường), Điều 237 (Tội vi phạm quy định về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường), Điều 238 (Tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê diều và phòng chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông), Điều 239 (Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam), Điều 242 (Tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản), Điều 243 (Tội hủy hoại rừng), Điều 244 (Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm), Điều 245 (Tội vi phạm quy định về bảo tồn thiên nhiên), Điều 246 (Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại), Điều 300 (Tội tài trợ khủng bố), Điều 324 (Tội rửa tiền). Xem xét các loại tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, chúng ta dễ dàng nhận thấy chỉ đối với một số hành vi liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại, thuế, tài chính, môi trường … thì mới quy định trách nhiệm hình sự.

– Tinh gọn các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Cụm từ “xâm phạm quyền con người” đã thay thế cho “xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản”. Cách quy đinh này trước hết làm cho khái niệm tội phạm đảm bảo được tính ngắn gọn, súc tích nhưng vẫn khái quát được toàn bộ các quan hệ mà pháp luật hình sự phải can thiệp. Thay vì theo cách liệt kê, dự liệu chi tiết từng mối quan hệ thì đến đây các nhà làm luật đã nhìn nhận một cách tổng thể hơn, khái quát hơn, khắc phục nhược điểm, tư tưởng liệt kê mà bấy lâu nay vẫn áp dụng. Phương pháp liệt kê trong Bộ luật hình sự 1999 có ưu điểm là chỉ điểm cụ thể các quan hệ hay nói cách khác là xác định đích danh, tuy nhiên phương pháp này không mang tính bao quát. Việc quy định cụm từ quyền con người là phù hợp với hiến pháp 2013 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chúng ta ghi nhận một cách trân trọng về quyền con người tại một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất. Tiếp nối sự khẳng định trong việc tôn trọng, thừa nhận và bảo vệ quyền con người mà Bộ luật hình sự sửa đổi đã có cách ghi nhận mới. Do vậy việc ghi nhận như hiện nay là hoàn toàn phù hợp, đúng đắn trong tiến trình hội nhập quốc tế, Nhà nước đã sử dụng công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ quyền con người.

– Xác định lại phạm vi chịu trách nhiệm hình sự: Khái niệm tội phạm thể hiện rất rõ một chủ thể chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi và chỉ khi xâm phạm các mối quan hệ mà theo quy định Bộ luật hình sự hành vi đó phải bị xử lý. Chính vì vậy mà khi một hành vi xảy ra trên thực tế, bên cạnh xác định các yếu tố cấu thành khác thì chúng ta phải xác định hành vi đó có cấu thành một trong các loại tội phạm được thể hiện trong Bộ luật này hay không. Mặc dù một hành vi có xâm phạm đến một mối quan hệ xã hội nhất định nhưng không thuộc phạm trù được liệt kê tại phần các tội phạm thì đương nhiên hành vi này không phải chịu trách nhiệm hình sự, có chăng nó sẽ cấu thành một trách nhiệm pháp lý khác như trách nhiệm hành chính, dân sự. Bộ luật hình sự 1999 chưa thực hiện được điều này và từ đó tạo ra sự nhầm lẫn, mâu thuẫn trong chính khái niệm cũng như trong từng loại tội phạm nhất định.

Một hành vi khi thỏa mãn được 4 yếu tố nêu trên thì cấu thành tội phạm. Tuy nhiên xét yếu tố về tính nguy hiểm cho xã hội mà pháp luật có thể loại trừ nó ra khỏi các biện pháp chế tài của Bộ luật hình sự hay nói cách khác hành vi đó không phải chịu trách nhiệm hình sự, nó sẽ được xem xét ở các trách nhiệm pháp lý khác như hành chính hay dân sự. Như vậy một câu hỏi được đặt ra là mức độ nguy hiểm của một hành vi được xác định như thế nào? Đây là một vấn đề rất quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến tính phải chịu trách nhiệm hình sự của một hành vi.

Để đánh giá một cách chính xác tính nguy hiểm của hành vi cần phải xem xét một cách tổng thể, đối chiếu qua lại giữa nhiều yếu tố khác nhau như: chủ thể thực hiện là ai, hoàn cảnh khi nào, ở đâu, hậu quả mà hành vi đó gây ra…có như vậy mới đưa ra được nhận định đúng đắn. Không có một khuôn mẫu, chuẩn mực nào để chúng ta có thể xác định ngay lập tức mức độ nguy hiểm của hành vi mà phải phụ thuộc nhiều vào sự đánh giá của các cơ quan điều tra, tố tụng. Để đảm bảo tính công bằng, đòi hỏi các cá nhân, cơ quan chức trách khi xem xét hành vi phải thật sự khách quan.

Như vậy, để đảm bảo một hành vi được xem là tội phạm thì cần phải đảm bảo các điều kiện sau:

Thứ nhất, phải là hành vi nguy hiểm, xâm hại đến các quan hệ được pháp luật hình sự bảo vệ và được quy định trong Bộ luật Hình sự.

Hành vi nguy hiểm cho xã hội là một trong các yếu tố của mặt khách quan, được hiểu hành vi đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Các quan hệ đó là: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Nếu thiệt hại gây ra hoặc đe dọa gây ra không đáng kể thì không phải hành vi nguy hiểm cho xã hội và không bị coi là hành vi phạm tội. Ví dụ: Trộm cặp tài sản lần đầu tiên mà tài sản có trị giá chưa đến 02 triệu đồng mà chưa gây hậu quả nghiêm  thì không coi là tội phạm.

Việc đánh giá hành vi nào hành vi gây nguy hiểm cho xã hội phụ thuộc vào tình hình phát triển của xã hội và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Ví dụ: Nếu trước đây hành vi hoạt động phỉ là hành vi nguy hiểm cho xã hội thì nay Bộ luật Hình sự 2015 đã bỏ quy định này, thu hút về các cấu thành tội khác phù hợp hơn. Ngược lại, có những hành vi trước đây chưa được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng nay lại là hành vi nguy hiểm xã hội. Ví dụ: Hành vi xâm phạm quyền ứng cử của công dân, trước đây chưa được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nay hành vi này được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội.

Khi xác định một hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng tức là đã coi hành vi đó là hành vi phạm tội, tất nhiên người thực hiện hành vi đó có bị truy cứu hình sự hay không còn phải căn cứ vào yếu tố khác được quy định trong Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, không phải hành vi nguy hiểm nào cho xã hội cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các hành vi nguy hiểm này phải là hành vi được quy định trong Bộ luật Hình sự hiện hành. Về mặt lý luận, nguyên tắc này nhằm gạt bỏ việc áp dụng nguyên tắc tương tự. Chỉ có Bộ luật Hình sự mới được quy định về tội phạm, ngoài ra, nếu không thỏa mãn hành vi được quy định trong Bộ luật Hình sự thì không được xem là tội phạm.

Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 8 còn nêu rõ, hành vi phạm tội đó phải là hành vi gây ra nguy hiểm đáng kể, còn nếu gây ra nguy hiểm không đáng kể thì không được xem là tội phạm. Ví dụ: trong tội cố gây thương tích, thì hậu quả là thương tích gây ra, thì nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Khoản 1 thì hậu quả ở đây là phải gây ra thương tích từ trên 11% trở lên mới được xem là tội phạm.

Thứ hai, hành vi nguy hiểm cho xã hội phải do chủ thể theo quy định của Bộ luật hình sự thực hiện.

Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng không phải ai thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng đều là chủ thể của tội phạm, mà chỉ những người hoặc pháp nhân thương mại có năng lực trách nhiệm hình sự mới là chủ thể của tội phạm.

Bộ luật Hình sự không quy định cụ thể các trường hợp được coi là có năng lực trách nhiệm hình sự mà chỉ quy định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Trong các điều luật cụ thể, một vài trường hợp cũng sẽ nhắc đến độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự này. Tuy nhiên, độ tuổi để có năng lực chịu trách nhiệm hình sự này không được quy định cố định, mà tùy vào từng trường hợp sẽ quy định bắt buộc người thực hiện hành vi phạm tội tại độ tuổi đó phải nhận thức được và điều khiển được hành vi của mình. Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự sẽ được quy định chi tiết và cụ thể tại Điều 12 Bộ luật hình sự.

Ngoài ra, trong một số trường hợp chỉ một hoặc một số người mới là chủ thể của tội phạm, những trường hợp này được xem là chủ thể đặc biệt trong bộ luật Hình sự. Ví dụ: Chỉ người mẹ đẻ mới là chủ thể của tội giết con mới đẻ. Còn nếu không phải mẹ đẻ mà là người khác thì sẽ là tội giết người. Trường hợp này được xem là chủ thể đặc biệt. Ngoài ra, chỉ người có chức vụ quyền hạn mới là chủ thể của các tội có chức vụ quyền hạn, trường hợp này loại trừ các trường hợp đồng phạm cùng thực hiện hành vi.

Thứ ba, chủ thể thực hiện hành vi tội phạm phải có lỗi dưới dạng vô ý hoặc cố ý.

Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.

Tuy nhiên, khi Bộ luật Hình sự 2015 quy định thêm chủ thể mới là pháp nhân thương mại thì việc định nghĩa lỗi không còn như trước nữa, mà phải bổ sung lỗi là thái độ tâm lý của một người hoặc một pháp nhân thương mại đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó dưới hình thức vô ý hoặc cố ý.

Trên thực tế lỗi chỉ được xác định trên đối tượng là con người còn pháp nhân thương mại rất khó xác định lỗi trong trường hợp này. Để hiểu mặt lỗi của pháp nhân thương mại, cần phải hiểu pháp nhân thương mại hoạt động thông qua một hoặc  một số người đại đại diện, như vậy, lỗi của pháp nhân thương mại chính là lỗi của người đại diện pháp nhân thương mại đó.

Khoa học luật hình sự coi lỗi là một dấu hiện thuộc mặt chủ quan của  tội phạm. Nếu một hành vi nguy hiểm cho xã hội không bị coi là có lỗi thì người hoặc pháp nhân thương mại có hành vi nguy hiểm cho xã hội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì không đủ yếu tố cấu thành của tội phạm. Tội phạm là hành vi có lỗi, tính có lỗi là thuộc tính cơ bản của tội phạm, là cơ sở để buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình hoặc của tổ chức mình và hậu quả của hành vi đó gây ra. Hiện nay, lỗi được quy định tại Điều 10, Điều 11 của Bộ luật Hình sự.


Luật sư Hình sự - Quảng Ngãi

Luật sư Hình sự – Quảng Ngãi



Khuyến nghị của Luật sư Quảng Ngãi .org

    1. Bài viết nêu trên được Luật sư Quảng Ngãi .org thực hiện nhằm mục đích tham khảo, nghiên cứu khoa học, phổ biến kiến thức pháp luật.
    2. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, vui lòng liên hệ với Luật sư Quảng Ngãi .org qua hotline 0905 333 560, Email:  info@luatsuquangngai.org


Liên hệ – Luật sư Quảng Ngãi .org

LUẬT SƯ TẠI QUẢNG NGÃI
    1166 Quang Trung, P. Chánh Lộ, TP. Quảng Ngãi

LUẬT SƯ TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
    389/74/6 Lê Văn Khương, P. Hiệp Thành, Quận 12, TP. HCM
    204 Ngô Quyền, Phường 8, Quận 10, TP. HCM

Hotline: 0905 333 560
Email: info@luatsuquangngai.org

Website:  www.LuatsuQuangNgai.org     www.LCAlawfirm.vn     www.DoanhNghiep.LuatsuQuangNgai.org  

Fanpage Luật Sư Quảng Ngãi: https://www.facebook.com/luatsuquangngailca

Công ty Luật LCA                    : https://www.facebook.com/luatsugioiquangngai

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo
0905333560